Bài gửi đăng báo xuân Bính Thân 2016:
CÂU ĐỐI TẾT và CÂU ĐỐI TÀI HOA VỀ CÁC NGHỀ
CỦA TAM NGUYÊN YÊN ĐỔ NGUYỄN KHUYẾN
------------------------------------------------------
Phạm Tài Nguyên
Nguyên Trưởng Ban nghiệp vụ Hội Nhà báoVN
CÂU ĐỐI TẾT
Cứ mỗi độ tết đến xuân về, báo chí và các phương tiện truyền thông, kể cả các trang mạng internet lại đua tài đăng tải câu đối tết, đón xuân. “ Viết câu đối, tục này xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước ở Trung Hoa, gọi là Đào Phù. Theo sách sử thì từ “Đối” ở đây có nghĩa là ngang nhau là hợp nhau thành một đôi: Câu đối là một trong những thể loại của văn học, thường được liệt vào loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau, biểu thị ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước một hiện tượng, sự việc nào đó trong đời sống xã hội gọi là vế ra và vế đối. Câu đối được xem là tinh hoa của văn hóa, nên người xưa thường nói: “ Nếu thơ văn là tinh hoa của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa”.(1)
Người Việt từ xưa đến nay, cũng thích chơi câu đối nhưng lại có nét phát triển riêng.
Chuyện xưa kể rằng: Nhân dịp đầu xuân, năm mới, nhà Vua muốn lặng lẽ vi hành ra ngoài kinh thành để thưởng ngoạn không khí tết, đón nắng xuân, nhân thể xem dân tình ăn tết ra sao, nhất là những nông hộ nghèo. Bách bộ một hồi lâu, Vua tới một cái cổng đơn sơ, tới mức không có cả cánh cổng, nhìn thấy bên trong là căn nhà tranh, vách đất, biểu hiện gia chủ của nó là một nông hộ nghèo. Vua liền chậm rãi bước vào. Quả nhiên, đây là nhà của vợ chồng ông lão làm nghề hót phân. Thấy Vua đột ngột xuất hiện, vợ chồng ông lão rất đỗi ngạc nhiên. Sau phút giây e ngại, lúng túng, được nhà Vua ân cần thăm hỏi, vợ chồng ông mới trút được nỗi sợ hãi và thành thật kể cho nhà Vua nghe công việc làm ăn cùng vui tết, đón xuân của gia đình mình. Thì ra kế mưu sinh của vợ chồng ông lão là hằng ngày, chẳng quản nắng mưa, đầu đội nón, khoác áo tơi lá, quẩy quanh gánh với đôi sọt, mang theo hai mảnh xương trâu trông như hai thanh kiếm làm cái để đi hót phân trâu, bò…đem bán cho những người trồng lúa, trồng rau màu lấy tiền kiếm sống. Dù vất vả, gian nan, không được nhiều tiền, nhưng cũng đủ trang trải cho cuộc sống tằn tiện, đạm bạc và ngày xuân đôi vợ chồng nghèo cũng có ít thịt mỡ, dưa hành, bánh trưng xanh và cành hoa đào nhỏ. Nghe xong, nhà Vua rất đỗi cảm thông, quý mến, liền ban tặng đôi vợ chồng già hai tấm lụa quý và bảo người theo hầu lấy giấy bút, viết tặng nông hộ nghèo này đôi câu đối để dán ngoài cổng đón tết, mừng xuân. Nội dung đôi câu đối lại rất thi vị và hoành tráng:
Một bên là: “Khoác một chiếc áo bào, đảm đương việc lớn trong thiên hạ.
Còn bên kia là: “Tay cầm hai thước kiếm, tận thu lòng dạ của thế gian.
Câu đối được trưng lên, trong xóm ngoài làng người người nô nức tới xem, mừng cho vợ chồng ông lão hót phân có phúc đức được Vua ban tặng câu đối hay đến vậy. Nhưng quan sở tại thì lại mang lòng ghen ghét cho rằng câu đối có nội dung thoán nghịch, không tin là câu đối Vua ban mà là câu ngạo đời, dám nói việc hót phân của mình sánh ngang việc lớn của Thiên Tử. Liền sai lính bắt trói lại, chờ tâu triều đình xét xử lấy công. Nghe tin, nhà Vua nổi giận cho gọi viên quan sở tại vào chầu và quát mắng: “Làm quan mà không chịu nghe dân, không chịu học hỏi. Ngươi có biết câu đối đó là chính ta ban tặng cho vợ chồng ông lão đó không? Công việc hót phân để sạch làng, tốt lúa, chăm bón ruộng đồng, dân không bị đói, không phải là công việc lớn đó sao? Việc làm của đôi vợ chồng già không phải là việc đáng để nêu gương cho người đời đó sao? Ta tạm bãi chức quan của ngươi, khôn hồn mau về thả và tạ lỗi vợ chồng ông lão. Không làm ngay, ta coi ngươi là tội khinh quân, phạm thượng, chém đầu! Viên quan sở tại dạ vâng rối rít, run rẩy cáo lui. Từ đó câu chuyện Vua hiền đức ban lụa, tặng câu đối hay trong dịp tết cho dân nghèo được lưu truyền mãi trong dân gian và cũng từ đó, câu đối mừng xuân đón tết càng được người đời mến mộ.
CÂU ĐỐI TÀI HOA VỀ CÁC NGHỀ NGHIỆP
“…Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835-1909), có lẽ là người có nhiều câu đối nhất, để tặng những người làm nghề cực nhọc. Câu đối của Cụ, đằng sau cách chơi chữ tài hoa là thắm đượm một tấm lòng, là nỗi cảm thông, chia sẻ sâu sắc”.(2)
Vợ người thợ làm nghề hoạn lợn khóc chồng mất, được Cụ Tam Nguyên cho câu đối:
-Vui vẻ thay sợi chỉ vướng chân, trăm năm thề thốt cùng ăn ở;
-Đau đớn nhẽ, con dao cắt ruột, một giờ tưng tửng thế là xong.
Vợ của anh hàng thịt bị góa chồng khi còn trẻ. Chị nối nghề của chồng nên làm ăn khá giả. Nhân ngày giáp tết, chị mang biếu Cụ Tam Nguyên- người hàng xóm của mình, đôi bồ dục và bát tiết canh lợn. Cụ Yên Đổ liền ứng tác tặng chị bán thịt tốt bụng câu đối về treo tết bằng chữ Hán:
- Tứ thời bát tiết canh chung thủy
- Ngạn liễu, đôi bồ dục điểm trang.
Nghĩa là: Bốn mùa, tám tiết bền chung thủy
Dặm liễu, gò bồ muốn điểm trang.
Còn đây, là câu đối cho người vợ bác thợ rèn khóc, khi chồng qua đời:
- Nhà cửa để lầm than, con thơ dại lấy ai rèn cặp
- Cơ đồ đành bỏ bễ, vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.
Câu đối có đủ cả: Than, đe, bễ, rèn cặp. Mang đầy đủ tính chất không thể thiếu của người thợ rèn.
Và Cụ Tam Nguyên cũng tặng câu đối cho vợ người thợ nhuộm khóc chồng:
- Thiếp từ thủa lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc con đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ.
- Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan, tím ruột với trời xanh.
Mỗi vế đối ở trên có đủ 5 màu thợ nhuộm và 6 chữ đồng âm:
- 5 màu vế thứ nhất là: Thắm, tía, đen, điều, đỏ
- 5 màu vế thứ hai là : Vàng, hồng, trắng, tím, xanh.
Và đây nữa, lại là câu đối dành cho anh hàng gà khóc vợ, khi vợ mất để lại cho anh con thơ dại phải nuôi:
- Lồng tạo hóa, đáy sụt rồi, nháo nhác con tìm mẹ
- Gánh càn khôn ai xẻ nửa, lục cục trống nuôi con.
Từng câu đối trên của Cụ Tam Nguyên Yên Đổ, ta đều thấy mang đặc trưng nghề nghiệp bình dân, cực nhọc một cách rõ nét, biểu hiện tình thương và sự thấu hiểu, đồng cảm với người lao động của tác giả trong đời sống xã hội thời đó. Nhưng dù có từng trải của thời gian, ngày nay, đọc lên, chúng ta vẫn thấy nguyên mới, bởi tài hoa sử dụng chữ nghĩa, ngôn từ, đối thanh, đối ý đầy tinh vi và ý nhị của Cụ./.
PTN
Chú thích: (1) – Trần Quang (báo Hà Nội Mới cuối tuần)
(2) – Ngô Minh Khôi (báo Nhân Dân)